Bạc Liêu Quê Tôi
Người có về qua Bạc Liêu không ?
Nắng Xuân còn thắm má xuân hồng.
Râm ran tiếng dế thời thơ dại
Bờ cỏ xanh mềm trong nắng trong.
Chiều về ngang qua CẦU QUAY xưa
Bên kia TU MUỐI gió sang mùa.
Đường ra GIỒNG NHÃN kênh đào mới
Vỏ lãi nổ giòn những sớm trưa.
Nắng sớm trên hương lộ CÁI TRÀM ?
Chợ bên CẦU SẬP buổi chiều tan.
HÒA BÌNH, VĨNH MỸ thơm hương lúa
Phía vuông tôm nước mặn tuôn tràn.
GIÁ RAI, VĨNH LỢI, PHƯỚC LONG chào !
Ba mươi năm cũ đã trôi mau.
Tìm trong mưa nắng hương hoa đất :
Tìm lá thuyền xưa đỗ bến nào ??
Chiều ra nhìn XIÊM CÁN bãi xa,
BUỔI CÁN nước đỏ thắm phú sa.
GÀNH HAO đón cá tôm về bến
Có đón người thân từ chốn xa ?
BIỂN NHÃN vui mùa thu hoạch mới
Trái chín vàng thơm ngọt mấy đời.
Nhãn đẹp sum suê tàn lá đợi
Đát giồng nồng gió biển ngàn khơi.
Ruộng muối lắng từng ô nước mặn
Diêm điền nồng đượm vị khơi xa.
Hạt muối kết tinh tình đất Mẹ
Mặn mòi thơm thảo biển quê Cha.
Cọ tiêng độc huyền vẳng trong mơ,
Lời ca thắm ý bậu mong chờ.
Bác SÁU LẦU canh khuya thao thức
“ DẠ CỔ HOÀI LANG “ đẫm ý thơ…
Mái TRƯƠNG CÔNG LẬP thuở ban đầu
Nền cũ gạch tàu, ngói đỏ au.
Trương của bao người con đất BẠC
Nay bốn phương trời nhớ xuyến xao.
Cổng trường Trung Học, sân quần vợt
Cạnh bên hồ tắm nước long lanh.
Đại lộ phủ hang cây rợp bóng.
Thuở thanh bình, táng lá ngát xanh.
Thầy SÂM, Thầy ÁN, Thầy TRUNG NGHĨA
Cô SẮC, Thầy TÒNG, Thầy TRỌNG ÂN…
Ơn Thầy Cô miệt mài năm tháng
Truyền kiến thức, dạy điều nghĩa nhân.
Trò xưa giờ cánh chim lìa tổ,
Đi bốn phương trời bước ruỗi dong.
Phiêu bạt vẫn hoài trông cố độ
Bến nước ngày thơ mãi ngóng trông.
Phương người dầu dãi nhiều năm tháng,
Hình bóng quê xưa chẳng xóa nhòa
Chan chứa tình thương về cố quán
Chờ mong tái hợp buổi an hòa.
Dù mai sẽ quay về chốn cũ
Hay cả đời đất khách tha hương.
Mái tóc năm nào nay bạc trắng
Thương về đất BẠC mãi tơ vương.
Nhớ sóng lúa ánh vàng mùa gặt hái,
Nhớ mắt em tha thiết buổi đăng trình.
Tôi tìm về khung trời thơ tuổi dại,
BẠC LIÊU TRĂM NĂM dào dạt ân tình
ĐỢI CHỜ
Rồi khi nào anh về nghe em nói,
Trên bãi chiều em vẫn đứng chờ mong.
Bãi đông đúc khi hạ về nắng chói
Hay đìu hiu bãi vắng lúc tàn đông.
Em đứng đã bao năm nghe sóng vỗ
Biển bên em cát ướt dưới chân trần
Mây phiêu lãng có trôi về cố thổ
Tụ rồi tan cho đẹp nghĩa phù vân?
Đã bao năm con dã tràng se cát
Viên cát vo tròn đều đặn như khuôn.
Se chăm chỉ bền lâu bên sóng bạc
Se đến vô cùng vô tận ...tháng năm suông.
Rồi con nước lớn ròng theo nhật nguyệt
Lớp lớp xô bờ mặt bể nhấp nhô.
Đợt sóng lớn ầm ào không tưởng tiếc
Công khó dã tràng lại hóa hư vô!!
Bầy trẻ nhỏ đùa vui trên cát trắng
Cô bé cùng em đào đắp lũy thành
Bên biển xanh miệt mài xây rồi xóa
Má ửng hồng theo nắng sớm lên nhanh.
Em thường gặp bà cụ già tóc trắng
Nheo mắt nhìn nắng chói phía trời xa.
Bà nhớ lắm đứa con mình xa vắng
Ngày tương phùng đợi mãi tháng năm qua.
Bao thuyền nhỏ ra khơi trong đêm trước
Biết mai đây cá có ngập khoang thuyền.
Hương biển mặn thấm như tình đất nước
Thuyền phương nào, về bến có bình yên ?
Biển chiều lên, thu đông rồi xuân hạ,
Nước đầy vơi năm tháng cũng hao gầy.
Người quên chăng lời người khi từ tạ
Rằng: Bao lâu anh cũng sẽ về đây.
Em đinh ninh lời người bên sóng bạc
Rồi năm nao người sẽ lại quay về.
Trong gió lộng, chim trời ngưng tiếng hát
Em vẫn chờ. Đời trôi tựa cơn mê…
MIÊN TRƯỜNG TRÚC MAI
Chiều nghiêng bóng nắng lưng đồi,
Em nghiêng bóng nửa thân người trên tôi.
Chao nghiêng cánh nhạn lưng trời,
Em đi biền biệt nửa đời về xa.
Rồi qua bao cuộc phong ba
Tìm em vạn nẻo giang hà. Tìm đâu?
Xuyên bao nhiêu cánh rừng sâu,
Tìm theo vạn lối chân cầu nước trôi.
Trường giang chảy một dòng xuôi,
Đổ ra biển lớn, gọi người chân mây.
Sắc hương xưa dẫu tàn phai,
Nghĩa ân vun đắp theo ngày tháng trôi.
Dù bao ly cách chia phôi,
Tình xưa ấp ủ bồi hồi lòng riêng.
Em sang bến khác trăm miền,
Bến xuân, tôi vẫn triền miên đợi người.
Qua thêm vạn nẻo đuờng đời
Người xa muôn dặm biển khơi tìm về.
Ngỡ ngàng trên bến sông quê.
Chút tình xưa quyện trăng thề hương xa…
Trùng lai bên cội mai già,
Quỳnh tương xin cạn chén ngà đêm hương.
Một lần trao, một đời vương,
Thì trăm năm nguyện:
Miên Trường Trúc Mai.
ĐÂU CÒN EM BÊN TÔI
Gọi tên em vào buổi sáng,
Mặt trời còn khuất chân mây.
Lòng dạt dào tình trìu mến
Thương làn tóc xỏa vai gầy.
Vòng tay ôm em ban trưa
Lá hoa bừng vui nắng tỏ.
Xuyên qua cành biếc lưa thưa
Bóng đôi mình in vệ cỏ.
Đứng giữa vườn hoa trăm sắc
Hôn lên suối tóc mây ngàn.
Niềm hạnh phúc này rất thật
Tình yêu dâng tựa suối nguồn.
Ôm phao cùng đùa sóng biển
Phơi mình tắm nắng Hòn Tre.
Hải âu từng đàn chao liệng.
Lời yêu em đất trời nghe!!
Ước sẽ cùng em chung lối
Dù đường trần khổ hay vui.
Đỡ nâng đời nhau sớm tối
Hân hoan, được mất ngậm ngùi.
Chiến chinh làm mình chia biệt,
Rời xa bến nước sông quê
Tình xưa mãi còn tha thiết,
Bụi thời gian xóa ngày về.
Bây giờ màn đêm thinh lặng
Tôi gọi tên Em bao lâu.
Em dạt phương nào gió cát.
Để mình tôi với nghẹn ngào…
Giang Sơn Hoa Gấm
Sắc Màu
Có phải mầu xanh của núi rừng
Của cành thông biếc lúc sang xuân
Của ngàn cây lá và hoa nữa
Em ở bên ta lúc… ngập ngừng…
Có phải mầu vàng vầng thái dương
Rọi soi qua khắp nẻo vô thường
Áo vàng em gợi thêm nhung nhớ
Cả một trời thơ rộn sắc hương.
Có phải mầu hồng đôi má say
Cho đời thêm những nét trang đài
Bao nhiêu hoa đẹp trong vườn thắm
Cũng sánh chưa bằng môi má ai?
Với mầu đỏ thẫm của phù sa
Mầu nước Bạch Đằng chiến tích xa
Máu giặc đỏ tràn trên sóng cả
Kiên lòng ta giữ vững sơn hà.
Tà áo trinh nguyên trong nắng mai
Vệ cỏ xanh non in dấu hài
Em bước ven đồi thơm nắng mới
Áo trắng quyện lòng ta ngát say.
Giữ bên lòng thu tím lá vàng,
Rừng hoa sim tím cả chiều hoang.
Mực mồng tơi tím loang trên áo,
Tuổi ấu thơ trôi biệt dặm ngàn
Đôi mắt đen huyền trong bóng đêm
Làn mi cong chớp khẽ ngoan hiền
Rồi mai gió cuốn chim bay mỏi
Đỗ bến, thuyền neo sông mắt em…
Đàn Chim Nhỏ
Đâu rồi đàn chim nhỏ
Không về vui bên sân?
Đêm qua trời trở gió
Mưa giăng mắc xa gần.
Chim về đâu đêm thâu,
Trú nơi nào khỏi ướt?
Sấm chớp vang mấy lượt,
Tơi tả cành hoa ngâu.
Thương đàn chim se sẻ,
Hạt bắp, hạt đậu này.
Chim về sân đi nhé,
Rồi có thức ăn đầy.
Sáng nay vang trong gió,
Bầy chim non ngàn khơi,
Vuông sân xanh màu cỏ,
Tiếng ríu rít bên đời.
Cành cây chim làm “nhà”,
Góc vườn chim xây tổ.
Bay hoài giữa bao la,
Có không miền cố thổ?
Ta như chim tha phương
Trải tháng năm sương tuyết.
Thấm đôi vầng nhật nguyệt,
Ngùi lòng nhớ cố hương…
CON KHÔNG VỀ
Hỏa châu thắp đỏ từng đêm,
Quê hương máu chảy ruột mềm lòng ta.
Vọng vang tiếng súng gần xa,
Mẹ hằng khấn nguyện an hòa cho con.
Đêm đen như dạ héo hon,
Năm cùng tháng tận sao con chưa về.
Cuối đông giá rét não nề
Nhà đơn quạnh quẽ tư bề mưa giăng.
Mẹ già chiếc bóng đơn thân
Ngóng về biên ải nguyện ân an bình
Trời làm tan tác mộng lành
Đất bằng sấm dậy, lìa cành nát quê.
Không bao giờ nữa, con về,
Không bao giờ nữa đường quê chân dồn!
À ơi! Tiếng khóc mỏi mòn,
Lá vàng khóc lá xanh non lìa cành!
BIẾT ĐÂU TÌM
Anh tìm cả trong rừng xưa cổ tích,
Anh tìm em qua trăm chốn ngàn phương.
Tìm em đâu trên khắp vạn nẻo đường,
Chân rảo bước mà lòng như hối hả.
Tìm nhau trên đường quê hương vạn ngả,
Anh quay về sau nửa kiếp chân mây.
Ngày tạ từ tay nắm lấy bàn tay,
Tưởng gặp lại một ngày không xa lắm.
Vậy rồi quá nửa đời trong thinh lặng,
Nhớ thương em gió bấc lạnh từng mùa,
Nhớ vô vàn ngày tháng cũ tiêu sơ,
Em ngự trị trong hồn anh đằm thắm.
Bên trường cũ gốc điệp tàn quạnh vắng,
Thềm rêu xanh dấu hài đã phai nhòa.
Lạc loài ngay trên cả lối quen xưa,
Anh đứng đợi buổi sum vầy hư ảo!
Em nghe chăng đầu thôn vang tiếng pháo,
Có hay anh trọn kiếp đợi tương phùng.
Em về đâu giữa trời đất mênh mông,
Tình xưa hỡi! Còn bao giờ tương ngộ ?...
Nhạc phẩm BIẾT ĐÂU TÌM
BÀI THƠ HOÀNG HẠC LÂU
Thơ HOÀNG HẠC LÂU Tác giả THÔI HIỆU
Tranh Thơ LẦU HOÀNG HẠC / Uyên Thúy Lâm
Hoàng Hạc Lâu là một trong bốn ngôi tháp ngắm cảnh nổi tiếng ở Trung Hoa, gồm Hoàng Hạc Lâu ở Vũ Hán, Nhạc Dương Lâu ở Nhạc Dương, Đằng Vương Các ở Nam Xương và Bồng Lai Các ở Bồng Lai.
Lầu Hoàng Hạc được xây vào năm 223 Tây Lịch, thời Tam Quốc. Tôn Quyền cho dựng ngôi lầu trên nền đá Hoàng Hộc với mục đích quan sát quân tình và thuyền bè. Trải qua biết bao thăng trầm và những biến động, Hoàng Hạc Lâu vẫn đứng vững với tên gọi “giang sơn đệ nhất lầu”. Có lẽ phải bắt đầu từ danh xưng “Lầu Hoàng Hạc “. Tương truyền dân gian thường thấy tiên nhân xuất hiện cỡi hạc vàng ngao du sông thủy. Và dĩ nhiên không thể thiếu những bài thơ nổi tiếng gắn liền với tên tuổi Lầu Hạc Vàng này. Trong đó nổi tiếng nhất là bài “Hoàng hạc Lâu” của Thôi Hiệu.
Vừa hùng vĩ vừa mỹ lệ, Lầu Hoàng Hạc ngày xưa là điểm dừng chân của tao nhân mặc khách. Khách đứng ở trên lầu cao nhìn xuống dòng Trường Giang sương khói mênh mang bát ngát, bên kia sông là một giải núi non uốn lượn như con rồng nằm. Trong khung cảnh hữu tình như thế: rượu chưa uống đã say, thơ chưa ngâm đã tràn. Khách thơ chẳng ngại ngần vung bút một đôi câu. Ngoài Thôi Hiệu (崔顥), đề thơ “Hoàng Hạc Lâu” tại chỗ, Lý Bạch (李白) cũng đã từng nhiều lần ghé lại tháp. Lần đầu đọc xong bài thơ “Hoàng Hạc Lâu”, Lý Bạch buông bút than rằng:
“Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc,
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu.”
(Thấy cảnh đẹp trước mắt mà không nói đươc, bởi vì trên đầu ta Thôi Hiệu đã đề thơ rồi!).
Tuy vậy, Lý Bạch không thể nào không viết về “Hoàng Hạc Lâu” trong những lần ghé thăm sau đó. Có thể là do cái thôi thúc của thi nhân “tức cảnh sinh tình”, cũng có thể là muốn tranh tài múa bút với Thôi Hiệu. Điển hình là bài “Lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng”, được đánh giá là một trong những bài hay nhất có liên quan tới “Lầu Hạc” này.
Tại Lầu Hoàng Hạc Tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng
BÀI THƠ HÒANG HẠC LÂU
HOÀNG HẠC LÂU
Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tĩnh xuyên lịch lịch Hán Dương Thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Tác giả THÔI HIỆU
Một vài BẢN DỊCH:
Bài thơ dịch của nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu.
LẦU HOÀNG HẠC
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa.
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh, cây bày.
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn.
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
TẢN ĐÀ dịch
***
LẦU HOÀNG HẠC
Người xưa cưỡi hạc đã lên mây,
Lầu Hạc còn suông với chốn này.
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn;
Nghìn năm mây bạc vẩn vơ bay.
Vàng gieo bên Hán, ngàn cây hửng;
Xanh ngút châu Anh, lớp cỏ dầy.
Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ?
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây.
NGÔ TẤT TỐ dịch
***
LẦU HOÀNG HẠC
Người xưa cưỡi hạc bay đi mất,
Riêng lầu Hoàng Hạc vẫn còn đây.
Hạc đã một đi không trở lại,
Man mác muôn đời mây trắng bay.
Hán Dương sông tạnh, cây in thắm;
Anh Vũ bờ thơm, cỏ biếc dầy.
Chiều tối, quê nhà đâu chẳng thấy;
Trên sông khói sóng gợi buồn ai.
TRẦN TRỌNG SAN dịch
Nhạc sĩ Cung Tiến phổ nhạc bản dịch của Vũ Hoàng Chương:
ừ xưa đến nay, hoài cổ luôn là cái nghiệp của thi nhân. Bài “Thăng Long Thành Hoài Cổ” của bà Huyện Thanh Quan:
“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
nước còn cau mặt với tang thương.”
Bài “Hoài Cổ” của Nguyễn Khuyến có câu:
“Thôi thôi đến thế thời thôi nhỉ,
Mây trắng về đâu nước chảy xuôi.”
Hay bài “Xích Bích Hoài Cổ” của Đỗ Mục vơi bốn câu:
“Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu,
Tự tương ma tẩy nhận tiền triều.
Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
Đồng Tước xuân thâm toả nhị Kiều.”
(dịch: mũi kích dưới cát chưa hao mòn, tự tay mình mài dũa nhận ra dấu vết triều đại trước, nếu không có gió đông giúp Chu Du, thì lầu Đổng Tước đã giam hai nàng Kiều.)
Thấy cảnh mà nao lòng! Qua những câu thơ trên, thi nhân đã nói lên được cái vương vấn khắc khoải, ngậm ngùi qua thời gian.
Bài “Hoàng hạc Lâu” mở đầu bằng bốn câu phá cách. Thôi Hiệu bỏ niêm luật và vần qua một bên. Hai chữ “Hoàng Hạc” được lập lại ba lần. Câu thứ ba liên tục sáu thanh trắc. Thôi Hiệu thuận chiều cảm xúc mà lai láng, nhẹ từ mà nặng ý. Thi nhân bỏ qua ràng buộc “đối” ở câu 3 và 4. Cả sáu câu trên tả cảnh, tả tình dàn dựng khéo léo để cho hai câu kết gói ghém lại, chữ dùng vừa đẹp vừa cảm xúc. Dùng chữ “sầu” để kết bài thơ thì đúng là bút pháp của thi tiên vậy. Bài thơ tuy đã đọc xong mà vẫn còn cái cảm giác hơi thơ bay xa đến dòng Hán Thủy.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Hai câu dịch cuối của Tản Đà thật khéo vì giữ được cả ý lẫn hơi thơ.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn.
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Lúc còn trẻ, Thôi Hiệu sống phóng túng, đã từng làm quan. Lúc đó Ông đã có những bài thơ diễm tình theo đường hướng cảm xúc. Có nhiều người không thích ông. Sau khi đã trải qua những thăng trầm của cuộc sống, ông có những thay đổi về nhân sinh, nhất là khi nhìn thấy những cảnh cơ cực ở vùng biên tái. Bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” được ra đời ở lúc sau này.
Cánh hạc đã bay đi mất. Người xưa cưỡi hạc không còn nữa. Bãi cỏ Anh Vũ sau bao năm tháng đã bị nước cuốn đi. Ngay cả ngôi lầu cũng bị dời đi vào đất liền. Khách thưởng lãm không còn được đứng ở trên cao nhìn xuống dòng Trường Giang sương khói “cho buồn lòng ai”. Hàng cây Hán Dương rực sáng năm xưa giờ chỉ còn trong trí tưởng tượng người đọc thơ.
Cuối cùng chỉ còn lại bài thơ là chứng nhân chung thủy duy nhất của một phút chạnh lòng. Thi nhân, sau cơn mưa chiều, đứng trong ngôi tháp cổ nhìn xuống dòng Trường Giang mênh mang đổ ra biển, sau lưng là Xà Sơn, trên đầu mây trắng ngàn năm vẫn bay (bạch vân thiên tải). Tất cả thoát thai trở thành tuyệt xướng cho ngàn năm sau trầm trồ (thiên cổ tuyệt xướng).
UYÊN THUÝ LÂM
NGUỒN:
(1) BÁCH KHOA TOÀN THƯ MỞ WIKIPEDIA
(2) LÝ BẠCH VÀ BÀI THƠ HOÀNG HẠC LÂU, TRANG GÓC TRỜI VIỄN XỨ.
(3) HOÀNG HẠC LÂU: ‘THIÊN HẠ TUYỆT CẢNH’ CỦA VÙNG VŨ HÁN BÂY GIỜ RA SAO?, TRANG NTD VIỆT NAM.
UYÊN THÚY LÂM